Nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thành phố Đà Nẵng, làng cổ Nam Ô không chỉ lưu dấu những di tích mà còn là một địa chỉ khám phá thú vị về du lịch, ẩm thực mà ít nơi nào có được.
Làng cổ và những trầm tích lịch sử
Cách trung tâm TP Đà Nẵng chỉ hơn 10 km, chạy hết tuyến đường ven biển Nguyễn Tất Thành sẽ gặp bãi cát trắng trải dài còn khá hoang sơ. Ở đó chính là làng biển Nam Ô. Con đường biển rộng thênh thang, lại chạy thẳng một đường nên việc đến với làng Nam Ô quá đỗi đơn giản. Du khách có thể đi ô tô, xe máy và những người có thể lực, yêu thể thao thì có thể đạp xe túc tắc vừa đi vừa “check in” dọc theo bờ biển.
Có lẽ sẽ hiếm có làng biển nào như Nam Ô với “tuổi làng” gần 700 năm. Cũng vì lẽ đó mà khi đến làng cổ này, không gì thú vị hơn là được mục sở thị những di tích của làng, được nghe các bô lão kể tích xưa.
Ngay trước bờ biển Nam Ô, là Lăng Ngư Ông. Trong tiếng rì rào của sóng biển, ông Trần Ngọc Vinh dẫn khách vào trong lăng. Ông Vinh nhẹ nhàng gỡ tấm vải đang che những bộ xương cốt cá Ông mà dân làng còn lưu giữ, rồi ông cho biết, hiện Lăng Ngư Ông đang thờ 47 bộ xương cá Ông. Các bộ xương này được ngư dân chôn cất sau đó di dời vào lăng từ năm 1848 đến nay và được cư dân của làng thờ cúng trang nghiêm.
Cũng theo các bậc cao niên của làng, lúc đầu Lăng có kiến trúc như sườn gỗ, tường đá trát vôi vữa, mái lợp lá kè; đến năm 1851, Lăng được tôn tạo to đẹp hơn.. Cách Lăng Ông khoảng 300m về phía Nam là mộ Cá Voi. Tương truyền Cá Voi sau khi bị lụy trôi dạt vào bờ sẽ được người dân mai táng sau ba năm họ sẽ đưa hài cốt cá Ông đến Lăng để thờ cúng. Gần đó là Dinh Cô Hồn. Theo các bô lão trong làng thì trong các trận chiến chống quân Pháp đánh vào cửa biển Đà Nẵng năm xưa, quân lính triều đình của 2 đồn Nam Ô, Tấn biển Cu Đê và dân binh địa phương tử trận rất nhiều, nên triều đình đã sắc dụ cho các dân xã lập đền thờ âm linh để tưởng nhớ tử sĩ trận vong. Thời vua Thành Thái đã sắc dụ cho các nơi lập Âm Hồn Đàn để tưởng vọng các tử sĩ đã bỏ minh trong biến cố thất thủ kinh đô năm 1885.
Đi theo con đường dẫn vào làng là Miếu Bà Liễu Hạnh xây dựng năm 1602 gắn với tục thờ mẫu của cư dân Đại Việt trên vùng đất mới, được nhân dân làng Nam Ô lưu truyền nhiều đời .
Một điểm dừng chân mà rất nhiều bạn trẻ chọn để check in phải kể đến là ghềnh đá Nam Ô. Nơi đây, vào mùa hè, nước biển trong xanh có thể nhìn thấy cá tôm bơi lội dưới những tảng đá rêu phong luôn là một điểm đến yêu thích. Cũng ngay trên ghềnh Nam Ô là cánh rừng thiêng nơi lưu giấu điển tích nơi công chúa Huyền Trân dừng chân vẫn còn được cư dân bảo tồn qua bao thế hệ.
Đi sâu vào làng, du khách sẽ được khám phá không gian văn hóa với những giếng nước Chăm tọa lạc ngay giữa ngôi làng này.
Đặc sản của làng biển
Với những du khách ưa khám phá ẩm thực thì Nam Ô sẽ mang đến một “bữa tiệc” của hương vị biển. Ngay từ đầu làng, mùi hương nồng nàn của mắm ruốc, nước mắm Nam Ô đã cồn cào ruột gan.
Nam Ô nổi tiếng nhất vẫn là nước mắm, chẳng phải thế mà từ ngàn xưa đã đọng lại những câu ca dao, thành ngữ dân gian: “Nước mắm Nam Ô – Cá rô Xuân Thiều”, hay “Bữa ni nhớ bún Chợ Chùa – Nhớ mắm Nam Ô, nhớ cua làng Gành”. Rảo bộ trong ngôi làng biển này dường như hương thơm của mắm đã hòa quện vào từng ngôi nhà, ngõ hẻm. Nhà nghiên cứu Đặng Phương Trứ diễn giải rằng, cá rô ở bàu tràm Xuân Thiều mẩy hình, thơm thịt, xương mềm mà nướng trên lửa hồng, vằm với nước mắm Nam Ô thì…chỉ có một từ diễn tả “tuyệt”.
Với những du khách thích trải nghiệm thì có thể đến đây để xắn tay áo thử làm mắm Nam Ô theo cư dân của làng. Lão ngư Trần Ngọc Vinh chia sẻ rằng, mắm Nam Ô được làm từ cá cơm than tươi roi rói do chính cư dân của làng đánh bắt về. Cá được đưa vào chum ủ với muối, không cần bỏ thêm thứ gì với công thức 10 cá, 3 – 4 muối, 2 ký cá sẽ cho ra 1 ký nước mắm, muối trong vòng 12 tháng. Cái vị mặn mòi, thơm nồng, màu vàng nhĩ của mắm Nam Ô không lẫn vào đâu được.
Với những người thích thưởng thức những sản vật tươi rói của biển thì buổi sáng tinh mơ, trên bờ biển Nam Ô, những chiếc ghe nhỏ của các bác ngư dân cập bờ mang theo những sản vật của biển. Việc mua bán diễn ra mau lẹ, phóng khoáng, hào sảng “rặt” kiểu ngư dân ăn sóng nói gió.
Sau một vòng du hí quanh làng Nam Ô, du khách có thể mua về những đặc sản của biển là bì cá hố khô, nục khô hay cá cơm mờm hay chai nước mắm đậm đà để làm quà. Để lưu dấu kỷ niệm của làng biển cổ Nam Ô.
Khi đã quá trưa, bụng đói cồn cào, du khách có thể đi xuyên qua làng, ra tới mép bờ sông Cu Đê để thưởng thức món đặc sản của vùng Nam Ô là gỏi cá trong cái mát lành thổi từ cửa sông.
Nguồn: Cổng Thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng